DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA NGHÈ DU VỊNH ( NGHÈ BA MƯƠI)Ngày 25/02/2024 00:00:00 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG
NGHÈ DU VỊNH ( NGHÈ BA MƯƠI)
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG NGHÈ DU VỊNH ( NGHÈ BA MƯƠI) Nghè Du Vịnh còn có tên gọi là Nghè Ba Mươi , thuộc làng Nho Quan, xã Du Vịnh ngày xưa, sau đó thuộc thôn 4- Làng Thắng Phú- xã Quảng Vinh, nay thuộc tổ dân phố Phú Khang- phường Quảng Vinh- TP Sầm Sơn. Tên xã Quảng Vinh có từ năm 1954. Nghè Du Vịnh đã đuợc UBND tỉnh Thanh Hoá xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 318/QĐ-UBND ngày 4 tháng 2 năm 2009. Thời Trần, vùng đất Quảng Vinh hiện nay thuộc Hương Yên Duyên làng du Vịnh thời Hậu Lê có tên gọi là Du Vịnh Sở, đầu thời Nguyễn là xã Du Vịnh tổng Giặc Thượng. Đến đời vua Đồng Khánh (1858 1888) xã Du Vịnh được tách làm hai đơn vị hành chính gồm: xã Du Vịnh (nơi dân cư ở truớc) và sở Du Vịnh (vùng đất khai khẩu thời Hậu Lê) thuộc tổng Cung Thuợng. Truớc cách mạng tháng tám năm 1945, các làng Truờng Lệ, Du Vịnh, Nho Quan hợp thành xã Nho Quan, tổng Cung Thuợng, huyện Quảng Xuơng. Đến năm 1947, các làng trên thuộc xã Bạch Đằng xã Lê Viên và xã Lãnh Phiên hợp thành xã Quảng Châu. từ năm 1954 xã Quảng Châu chia làm ba xã: xã Lãnh Phiên thành xã Quảng Châu, xã Lê Viên thành xã Quảng Thọ xã Bạch Đằng thành xã Quảng Vinh. Sách Thanh Hoá chư thần lục của Quốc sứ quán triều Nguyễn ghi: làng Du Vịnh thờ thần La Thuợng Anh Minh tôn thần. Thần tích kể rằng: Thần không rõ họ tên, quê quán, đời nhà Trần đến ở vùng Đông Bắc huyện Vĩnh Xương (Quảng Xương) giúp dân cư địa phương khai phá đất hoang, lập nên trang Thượng Khu, thuộc hương Yên Duyên, phủ Thanh Hoá. Bấy giờ, cửa sông Mã khi triều lên mênh mông trời nuớc, các loài tôm cá nhiều không kể xiết, thần giỏi nghề đan dệt, truyền dạy cho nhân dân Nho Quan, Du Vịnh cách trồng gai, xe sợi, đan dệt te, luới, vó. Từ khi có ruộng đất và công cụ đánh bắt cá tôm, đời sống nhân dân đuợc ấm no, sau thần tự nhiên hoá, dân xin triều đình cho lập miếu thờ để đền đáp công ơn. Lúc thần còn sống, thích uống rượu, lúc nào cũng mang một hũ rượu bên mình, và làm việc vừa uống rượu là một thói quen không thể bỏ. Vì thế, người ta gọi thần là "Ông Lưới" sau thành "Ông Lưới hay rượu" hoặc "Ông Thích rót". Dựa vào những biệt danh này, triều đình ban cho thần hiệu chữ hán" La Luyến Chiểu Chước tôn thần", hiểu nôm na là " vị nhân thần the lưới thích rót rượu" Nhân dân xem chữ" La Luyến" như tên huý của thần đuợc Nhà vua ban, nên kiêng từ "La", nói, đọc chệch là "Lô", từ "Luyến" đọc chệch là "Luyện", thành "Lô Luyện Chiểu Chước tôn thần". Làng giáp sông, kề biển, thưòng bị bọn cướp sông, cướp biển ban đêm đi thuyền bất ngờ cập bờ, đốt đuốc kéo vào nhà dân tìm thấy thứ gì lấy thứ ấy, từ manh quần tấm áo, từ đồng tiền bát gạo, đến lợn gà trâu bò, nếu ai chông cự, chúng giết ngay, trang ấp Thuợng Khu trở nên tàn tạ, hoang vắng, dân chúng bèn cầu khấn thần phật, xin chư vị phù hộ cho tai nạn qua khỏi. Một đêm, bọn cướp quen đường mò đến cướp bóc, bỗng nghe trong rừng núi trường lệ có tiếng hổ lang gầm thét dữ dội, rồi trong ánh đuốc mờ mờ tỏ tỏ, giặc cuớp thấy vô số hùm bước kéo ra từng đàn, từng lũ, nhe nanh múa vuốt, chúng liền sợ hải tháo chạy, không giám quay lại. từ đó dân làng thóat nạn cướp sông, cướp bể, nhưng lại nỗi lên nạn lũ quỷ ôn, quỷ dịch gây bệnh tật chết người hại của, có nhà không một ai sống sót, nhiều gia đình phải bồng bế, dắt díu nhau chạy trốn. Có người ốm gần chết bò đến tận miếu, cố đập ba cái vào bệ thờ kêu rằng"Ông Lô ơi! con dân của ông sắp chết hết cả rồi, thật phí công bấy lâu thờ cúng!", rồi mệt quá, gụp xuống thiếp đi, mộng thấy thần nhân bảo: " Lũ quỷ đói khát đòi ăn, hãy sắm sữa thuyền bè, cho ăn rồi mới đuổi đi được!". Người ấy chợt tỉnh, kể lại, dân làng bèn làm theo lời ông báo mộng, quả nhiên làng xóm được yên ổn. Từ đó thành lệ, đầu năm, làng tế thần cầu yên, khao ôn tống thuyền, việc cầu đảo đều linh ứng. Thời Hậu Lê, quân Mạc xâm phạm trấn Thanh Hoa, theo cử sông Mã và huyện Quảng Xương, chiếm cứ lang Đường Nang (nay thộc xã Quảng Cát). Triều đình sai tướng sĩ đánh dẹp không được nên cầu khấn thần linh giúp sức. Vào đêm rằm, viên tuớng triều đình mộng thấy một thần nhân tự xưng là "La Luyến Chiểu Chứơc tôn thân" hiến kế đêm sau mật phục các ngả, thần sẽ hiển linh trợ giúp, tỉnh giậy, viên tuớng làm theo lời thần. Đêm ấy, quân Mạc đang ngủ, bỗng thấy một người oai vệ như thiên thần, cưỡi trên lưng con hổ lang cực lớn xông thẳng vào đồn trại, quăng lưới vó chụp ngay đầu chủ tướng, theo sau hổ còn rất nhiều hùm beo. Quân Mạc khôn xiết kinh hoàng, mạnh ai nấy chạy, phục binh quân triều đình nổi dậy đánh chặn các ngã đường, chỉ một trận quân Mạc thua tan. Thắng trận, viên tướng tâu lên vua Lê, xin ban thưởng cho vi thần cưỡi hổ, quăng lưới bắt giặt. Nhà vua thấy thần hiệu ''La Luyến Chiểu Chước'' không được hay, bèn ban thêm mấy chữ ''La Thượng Anh Minh'' thành ''La Thượng Anh Minh La Luyến Chiểu Chước tôn thần''. Lại ban cho một trăm quan tiền để tu sửa nghè miếu . Đến triều nguyễn, triều đình xét công lao thần phù trợ vua Gia Long thống nhất quốc gia, sắc phong cho thần làm thần thành hoàng và ban ba mươi sáu quan tiền dùng vào việc đèn hương, lễ vật thờ phụng. Theo các cụ trong làng cho biết, trước đây, khi chưa phá hủy, nghè Ba Mươi là một quy mô lớn nhất xã Quảng Vinh. nghè tọa lạc tại cồn nuơng trung tâm làng du vịnh xưa, nhìn về huớng đông nam trên một diện tích 3300m2. Phía bắc và phía đông là đừơng liên thôn, phía nam có rạch nước tiêu thuỷ cho cả vùng quảng minh, quảng cát, phía tây là đồng lúa của làng du vịnh. Nghè cũ được xây dựng từ thời Lê, kiến trúc kiểu chữ đinh (J) bao gồm nhà tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế 5 gian với 4 vì kèo gỗ, cấu trúc theo kiêu "chồng rường kẻ bẩy" gồm hai hàng cột cái (12 cột) và hai hàng cột quân (12 cột), xung quanh thưng ván dỗi, mái lợp ngói âm dương, rui mè bằng gỗ lim, trên bộ khung nhà được chạm khắc phong phú các tra trí theo các đề tài tứ linh, tứ quý, mây cụm, vân xoắn hoa lá ... truyền thống. Tại nhà tiền tế có một huơng án lớn, bộ chấp kích, một hòm gỗ để lưu giữ các bài văn tế, thơ văn của các nhân sỹ đề vịnh. đồ tế khí còn lư hương bằng đồng, hai đôi hạc lớn đứng trên lưng rua, hai ngựa đá, hai ngữa gội kích thước như thật, hai đôi đèn lồng, ô lộng, quân cờ và hàng chục bát hương gốm, đá có hoa văn trang trí rất phong phú. Ở vị trí cột cái ngoài tiền tế treo 4 câu đối ở gian giữa, trên cao là bức hoành phi "vạn cổ anh linh". Nối liền với nhà tiền tế và hậu cung gồm 3 gian cột lim đứng hai hàng tiếp giáp với nhà tiền tế. Khoảng cách giữa nhà tiền tế và hậu cung là máng nước đá có hai cột đá vuông chốn đở, xung quanh được bao bằng đá vuông. Ở hậu cung có ba bà thờ lớn (còn gọi là hương án hay cỗ ỷ) đật theo thứ tự từ cao xuống thấp, có hai câu đối, 1hòm đựng sắc phong để lưu giữ thần phả, sắc phong. Sân nhgè lát gạch bát và là nơi để bồn hoa, cây cảnh. Ngan cách tường sân với vườn là hàng cây lá nhỏ được cắt xén vuông vức. Năm 1960, do biến động của công cuộc bài phong, Nghè đã bị tháo dỡ hoàn toàn, các đồ tế khí như ngự gỗ hạc, rùa, câu đối, hoành phi, lư hương, đế đèn thờ... thất lạc hết. Tháng 4 năm 2006, trên cơ sở tìm lại được những hiện vật cổ của Nghè, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng lại Nghè trên nền đất cũ với nhà hậu cung dài 5,1m; rộng 3,4m, diện tích 24m2 gồm 2gian xây bằng gạch, mái lợp ngói, nóc mái có 3chữ hán đắp nổi màu đen ''Ngè Ba Mươi'', trên đình đắp lưỡng long chầu nhật. Trong nghè chỉ đặt một đặt một bàn thờ ở gian giữa, ngai chính giữa thờ vị thần La Thượng Anh Minh La Luyện Chiều Chước tôn thần, bàn thờ được bày kiếm thờ,hạc thờ, các đồ tế khí khác như chân đèn, đài nước, mâm bồng, khay mịch, chuông đồng nhỏ... Đặc biệt, trong nghè còn lưu giữ được 02 tấm bia đá: 01tấm bia hậu ghi việc đóng góp tiền, ruộng xây dựng nghè và một bia văn chỉ của làng được soạn dưới đời vua tự đức thứ 31 (1878) . Về tấm bia hậu tại «Nghè Ba Mươi» (bia mờ dòng lạc khoản): cao 75cm: rộng 45cm; dày 7cm, không khắc trán và viền. Bia hiện vở làm 4 mảnh, 1 mảnh đã mất, người dân gắn nhầm mảnh vở của bia khác vào, hiện nay hầu hết các chữ đã mờ . do vậy, chỉ được dịch theo những chữ hiện có trên bia, Nội dung bia như sau: - Đất phúc đình ở xứ nường đông. - Đất tự điền (đất lộc điền lo việc thờ cúng) tại sứ hiệu hậu 1 sào - 100 quan do ông quan triều lê. - Đất tự điền (đất lộc điền lo việc thờ cúng) - Tại xứ Nường Đông 1 sào.......36 quan do bản làng ........... Bản giáp thủ thỉ chỉ là ông Nguyễn Văn Thử, Nguyễn Văn- Cầu Văn Phát, Nguyễn Văn Sâm, Đỗ Hữu Phổ, Nguyễn Văn Phả, Đỗ Hữu Thủ, Trần Công Nan....... Cựu lý trưởng thủ bạ là ông Trần Trọng Đôn cùng trên dưới ........... Tấm bia Văn chỉ của làng hiện cũng được lưu giữ tại Nghè Ba Mươi, soạn vào năm Mậu Dần, niên hiệu Tự Đức thứ 31.Kích thước bia cao 80cm; rộng 48cm; dày 9cm (1878), nội dung những thông tin trên bia không liên quan đến Nghè Ba Mươi nhưng trong đó phản ánh tín ngưỡng tâm linh, văn hóa và truyền thống Nho học ở làng Du Vịnh xưa. Qua việc tìm hiểu những ghi chép còn đọc được trên 2 tấm bia tuy không đầy đủ, nhưng những thông tin ít ỏi này cũng cho chúng ta biết rằng, dân làng Du Vịnh và các vị chức sắc lấy sự quyên góp tiền tài, ruộng đất giúp cho việc thờ cúng thần thánh ở Nghè Ba Mươi. Xem xét hệ thống thần linh được thờ ởn các làng ven biển Thanh Hóa, trong đó có làng Du Vịnh, mới thấy hết sự đa dạng trong đời sống lịch sử, văn hóa của cư dân nơi đây. Theo lệ xưa, hàng năm, làng Du Vịnh tổ chức lễ hội rằm tháng giêng. thượng hạ điền, cơm mới, tất niên với hát văn, hát cầu, múa lân để tế vị thần của làng và tổ chức các trò chơi dân gian...đã nói lên tính cấu kết khá bền vững của các dòng họ trong cộng đồng dân cư Du Vịnh xưa.Việc tổ chức Lễ hội được các dòng họ tham gia và có nghĩa vụ đóng góp công, của.Ở đây, vừa có nghi lễ cầu sơn thần phù hộ cho chân cứng đá mềm, vừa có nghi lễ Thủy thần cho sóng yên gió lặng, vừa có lễ cầu ngư, lại vừa có Lễ đảo vũ, đấy chính là những nét đặc sắc của văn hóa làng biển. Nghè Ba Mươi sau mấy trăm năm tồn tại nơi đầu sóng ngọn gió, trải qua những thử thách của thiên nhiên và nhiều biến cố lịch sử, Nghè đã bị mất đi nhiều di vật cổ, quy mô kiến trúc của Nghè cũng không được bề thế như xưa. Nhưng những chứng tích còn lại của Nghè đã làm sống lại một giá trị văn hóa, đời sống tinh thần phong phú của làng Du Vịnh xưa. CHƯƠNG TRÌNH LỄ HỘI NGHÈ BA MƯƠI
| NỘI DUNG | THỰC HIỆN | 1 | Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu |
| 2 | Khai mạc- đánh trống khai hội |
| 3 | Đọc sự kiện lịch sử truyền thống |
| 4 | Tế lễ |
| 5 | Đại biểu và nhân dân Dâng hương |
|
Đăng lúc: 25/02/2024 00:00:00 (GMT+7) SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG
NGHÈ DU VỊNH ( NGHÈ BA MƯƠI)
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG NGHÈ DU VỊNH ( NGHÈ BA MƯƠI) Nghè Du Vịnh còn có tên gọi là Nghè Ba Mươi , thuộc làng Nho Quan, xã Du Vịnh ngày xưa, sau đó thuộc thôn 4- Làng Thắng Phú- xã Quảng Vinh, nay thuộc tổ dân phố Phú Khang- phường Quảng Vinh- TP Sầm Sơn. Tên xã Quảng Vinh có từ năm 1954. Nghè Du Vịnh đã đuợc UBND tỉnh Thanh Hoá xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 318/QĐ-UBND ngày 4 tháng 2 năm 2009. Thời Trần, vùng đất Quảng Vinh hiện nay thuộc Hương Yên Duyên làng du Vịnh thời Hậu Lê có tên gọi là Du Vịnh Sở, đầu thời Nguyễn là xã Du Vịnh tổng Giặc Thượng. Đến đời vua Đồng Khánh (1858 1888) xã Du Vịnh được tách làm hai đơn vị hành chính gồm: xã Du Vịnh (nơi dân cư ở truớc) và sở Du Vịnh (vùng đất khai khẩu thời Hậu Lê) thuộc tổng Cung Thuợng. Truớc cách mạng tháng tám năm 1945, các làng Truờng Lệ, Du Vịnh, Nho Quan hợp thành xã Nho Quan, tổng Cung Thuợng, huyện Quảng Xuơng. Đến năm 1947, các làng trên thuộc xã Bạch Đằng xã Lê Viên và xã Lãnh Phiên hợp thành xã Quảng Châu. từ năm 1954 xã Quảng Châu chia làm ba xã: xã Lãnh Phiên thành xã Quảng Châu, xã Lê Viên thành xã Quảng Thọ xã Bạch Đằng thành xã Quảng Vinh. Sách Thanh Hoá chư thần lục của Quốc sứ quán triều Nguyễn ghi: làng Du Vịnh thờ thần La Thuợng Anh Minh tôn thần. Thần tích kể rằng: Thần không rõ họ tên, quê quán, đời nhà Trần đến ở vùng Đông Bắc huyện Vĩnh Xương (Quảng Xương) giúp dân cư địa phương khai phá đất hoang, lập nên trang Thượng Khu, thuộc hương Yên Duyên, phủ Thanh Hoá. Bấy giờ, cửa sông Mã khi triều lên mênh mông trời nuớc, các loài tôm cá nhiều không kể xiết, thần giỏi nghề đan dệt, truyền dạy cho nhân dân Nho Quan, Du Vịnh cách trồng gai, xe sợi, đan dệt te, luới, vó. Từ khi có ruộng đất và công cụ đánh bắt cá tôm, đời sống nhân dân đuợc ấm no, sau thần tự nhiên hoá, dân xin triều đình cho lập miếu thờ để đền đáp công ơn. Lúc thần còn sống, thích uống rượu, lúc nào cũng mang một hũ rượu bên mình, và làm việc vừa uống rượu là một thói quen không thể bỏ. Vì thế, người ta gọi thần là "Ông Lưới" sau thành "Ông Lưới hay rượu" hoặc "Ông Thích rót". Dựa vào những biệt danh này, triều đình ban cho thần hiệu chữ hán" La Luyến Chiểu Chước tôn thần", hiểu nôm na là " vị nhân thần the lưới thích rót rượu" Nhân dân xem chữ" La Luyến" như tên huý của thần đuợc Nhà vua ban, nên kiêng từ "La", nói, đọc chệch là "Lô", từ "Luyến" đọc chệch là "Luyện", thành "Lô Luyện Chiểu Chước tôn thần". Làng giáp sông, kề biển, thưòng bị bọn cướp sông, cướp biển ban đêm đi thuyền bất ngờ cập bờ, đốt đuốc kéo vào nhà dân tìm thấy thứ gì lấy thứ ấy, từ manh quần tấm áo, từ đồng tiền bát gạo, đến lợn gà trâu bò, nếu ai chông cự, chúng giết ngay, trang ấp Thuợng Khu trở nên tàn tạ, hoang vắng, dân chúng bèn cầu khấn thần phật, xin chư vị phù hộ cho tai nạn qua khỏi. Một đêm, bọn cướp quen đường mò đến cướp bóc, bỗng nghe trong rừng núi trường lệ có tiếng hổ lang gầm thét dữ dội, rồi trong ánh đuốc mờ mờ tỏ tỏ, giặc cuớp thấy vô số hùm bước kéo ra từng đàn, từng lũ, nhe nanh múa vuốt, chúng liền sợ hải tháo chạy, không giám quay lại. từ đó dân làng thóat nạn cướp sông, cướp bể, nhưng lại nỗi lên nạn lũ quỷ ôn, quỷ dịch gây bệnh tật chết người hại của, có nhà không một ai sống sót, nhiều gia đình phải bồng bế, dắt díu nhau chạy trốn. Có người ốm gần chết bò đến tận miếu, cố đập ba cái vào bệ thờ kêu rằng"Ông Lô ơi! con dân của ông sắp chết hết cả rồi, thật phí công bấy lâu thờ cúng!", rồi mệt quá, gụp xuống thiếp đi, mộng thấy thần nhân bảo: " Lũ quỷ đói khát đòi ăn, hãy sắm sữa thuyền bè, cho ăn rồi mới đuổi đi được!". Người ấy chợt tỉnh, kể lại, dân làng bèn làm theo lời ông báo mộng, quả nhiên làng xóm được yên ổn. Từ đó thành lệ, đầu năm, làng tế thần cầu yên, khao ôn tống thuyền, việc cầu đảo đều linh ứng. Thời Hậu Lê, quân Mạc xâm phạm trấn Thanh Hoa, theo cử sông Mã và huyện Quảng Xương, chiếm cứ lang Đường Nang (nay thộc xã Quảng Cát). Triều đình sai tướng sĩ đánh dẹp không được nên cầu khấn thần linh giúp sức. Vào đêm rằm, viên tuớng triều đình mộng thấy một thần nhân tự xưng là "La Luyến Chiểu Chứơc tôn thân" hiến kế đêm sau mật phục các ngả, thần sẽ hiển linh trợ giúp, tỉnh giậy, viên tuớng làm theo lời thần. Đêm ấy, quân Mạc đang ngủ, bỗng thấy một người oai vệ như thiên thần, cưỡi trên lưng con hổ lang cực lớn xông thẳng vào đồn trại, quăng lưới vó chụp ngay đầu chủ tướng, theo sau hổ còn rất nhiều hùm beo. Quân Mạc khôn xiết kinh hoàng, mạnh ai nấy chạy, phục binh quân triều đình nổi dậy đánh chặn các ngã đường, chỉ một trận quân Mạc thua tan. Thắng trận, viên tướng tâu lên vua Lê, xin ban thưởng cho vi thần cưỡi hổ, quăng lưới bắt giặt. Nhà vua thấy thần hiệu ''La Luyến Chiểu Chước'' không được hay, bèn ban thêm mấy chữ ''La Thượng Anh Minh'' thành ''La Thượng Anh Minh La Luyến Chiểu Chước tôn thần''. Lại ban cho một trăm quan tiền để tu sửa nghè miếu . Đến triều nguyễn, triều đình xét công lao thần phù trợ vua Gia Long thống nhất quốc gia, sắc phong cho thần làm thần thành hoàng và ban ba mươi sáu quan tiền dùng vào việc đèn hương, lễ vật thờ phụng. Theo các cụ trong làng cho biết, trước đây, khi chưa phá hủy, nghè Ba Mươi là một quy mô lớn nhất xã Quảng Vinh. nghè tọa lạc tại cồn nuơng trung tâm làng du vịnh xưa, nhìn về huớng đông nam trên một diện tích 3300m2. Phía bắc và phía đông là đừơng liên thôn, phía nam có rạch nước tiêu thuỷ cho cả vùng quảng minh, quảng cát, phía tây là đồng lúa của làng du vịnh. Nghè cũ được xây dựng từ thời Lê, kiến trúc kiểu chữ đinh (J) bao gồm nhà tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế 5 gian với 4 vì kèo gỗ, cấu trúc theo kiêu "chồng rường kẻ bẩy" gồm hai hàng cột cái (12 cột) và hai hàng cột quân (12 cột), xung quanh thưng ván dỗi, mái lợp ngói âm dương, rui mè bằng gỗ lim, trên bộ khung nhà được chạm khắc phong phú các tra trí theo các đề tài tứ linh, tứ quý, mây cụm, vân xoắn hoa lá ... truyền thống. Tại nhà tiền tế có một huơng án lớn, bộ chấp kích, một hòm gỗ để lưu giữ các bài văn tế, thơ văn của các nhân sỹ đề vịnh. đồ tế khí còn lư hương bằng đồng, hai đôi hạc lớn đứng trên lưng rua, hai ngựa đá, hai ngữa gội kích thước như thật, hai đôi đèn lồng, ô lộng, quân cờ và hàng chục bát hương gốm, đá có hoa văn trang trí rất phong phú. Ở vị trí cột cái ngoài tiền tế treo 4 câu đối ở gian giữa, trên cao là bức hoành phi "vạn cổ anh linh". Nối liền với nhà tiền tế và hậu cung gồm 3 gian cột lim đứng hai hàng tiếp giáp với nhà tiền tế. Khoảng cách giữa nhà tiền tế và hậu cung là máng nước đá có hai cột đá vuông chốn đở, xung quanh được bao bằng đá vuông. Ở hậu cung có ba bà thờ lớn (còn gọi là hương án hay cỗ ỷ) đật theo thứ tự từ cao xuống thấp, có hai câu đối, 1hòm đựng sắc phong để lưu giữ thần phả, sắc phong. Sân nhgè lát gạch bát và là nơi để bồn hoa, cây cảnh. Ngan cách tường sân với vườn là hàng cây lá nhỏ được cắt xén vuông vức. Năm 1960, do biến động của công cuộc bài phong, Nghè đã bị tháo dỡ hoàn toàn, các đồ tế khí như ngự gỗ hạc, rùa, câu đối, hoành phi, lư hương, đế đèn thờ... thất lạc hết. Tháng 4 năm 2006, trên cơ sở tìm lại được những hiện vật cổ của Nghè, chính quyền và nhân dân địa phương đã xây dựng lại Nghè trên nền đất cũ với nhà hậu cung dài 5,1m; rộng 3,4m, diện tích 24m2 gồm 2gian xây bằng gạch, mái lợp ngói, nóc mái có 3chữ hán đắp nổi màu đen ''Ngè Ba Mươi'', trên đình đắp lưỡng long chầu nhật. Trong nghè chỉ đặt một đặt một bàn thờ ở gian giữa, ngai chính giữa thờ vị thần La Thượng Anh Minh La Luyện Chiều Chước tôn thần, bàn thờ được bày kiếm thờ,hạc thờ, các đồ tế khí khác như chân đèn, đài nước, mâm bồng, khay mịch, chuông đồng nhỏ... Đặc biệt, trong nghè còn lưu giữ được 02 tấm bia đá: 01tấm bia hậu ghi việc đóng góp tiền, ruộng xây dựng nghè và một bia văn chỉ của làng được soạn dưới đời vua tự đức thứ 31 (1878) . Về tấm bia hậu tại «Nghè Ba Mươi» (bia mờ dòng lạc khoản): cao 75cm: rộng 45cm; dày 7cm, không khắc trán và viền. Bia hiện vở làm 4 mảnh, 1 mảnh đã mất, người dân gắn nhầm mảnh vở của bia khác vào, hiện nay hầu hết các chữ đã mờ . do vậy, chỉ được dịch theo những chữ hiện có trên bia, Nội dung bia như sau: - Đất phúc đình ở xứ nường đông. - Đất tự điền (đất lộc điền lo việc thờ cúng) tại sứ hiệu hậu 1 sào - 100 quan do ông quan triều lê. - Đất tự điền (đất lộc điền lo việc thờ cúng) - Tại xứ Nường Đông 1 sào.......36 quan do bản làng ........... Bản giáp thủ thỉ chỉ là ông Nguyễn Văn Thử, Nguyễn Văn- Cầu Văn Phát, Nguyễn Văn Sâm, Đỗ Hữu Phổ, Nguyễn Văn Phả, Đỗ Hữu Thủ, Trần Công Nan....... Cựu lý trưởng thủ bạ là ông Trần Trọng Đôn cùng trên dưới ........... Tấm bia Văn chỉ của làng hiện cũng được lưu giữ tại Nghè Ba Mươi, soạn vào năm Mậu Dần, niên hiệu Tự Đức thứ 31.Kích thước bia cao 80cm; rộng 48cm; dày 9cm (1878), nội dung những thông tin trên bia không liên quan đến Nghè Ba Mươi nhưng trong đó phản ánh tín ngưỡng tâm linh, văn hóa và truyền thống Nho học ở làng Du Vịnh xưa. Qua việc tìm hiểu những ghi chép còn đọc được trên 2 tấm bia tuy không đầy đủ, nhưng những thông tin ít ỏi này cũng cho chúng ta biết rằng, dân làng Du Vịnh và các vị chức sắc lấy sự quyên góp tiền tài, ruộng đất giúp cho việc thờ cúng thần thánh ở Nghè Ba Mươi. Xem xét hệ thống thần linh được thờ ởn các làng ven biển Thanh Hóa, trong đó có làng Du Vịnh, mới thấy hết sự đa dạng trong đời sống lịch sử, văn hóa của cư dân nơi đây. Theo lệ xưa, hàng năm, làng Du Vịnh tổ chức lễ hội rằm tháng giêng. thượng hạ điền, cơm mới, tất niên với hát văn, hát cầu, múa lân để tế vị thần của làng và tổ chức các trò chơi dân gian...đã nói lên tính cấu kết khá bền vững của các dòng họ trong cộng đồng dân cư Du Vịnh xưa.Việc tổ chức Lễ hội được các dòng họ tham gia và có nghĩa vụ đóng góp công, của.Ở đây, vừa có nghi lễ cầu sơn thần phù hộ cho chân cứng đá mềm, vừa có nghi lễ Thủy thần cho sóng yên gió lặng, vừa có lễ cầu ngư, lại vừa có Lễ đảo vũ, đấy chính là những nét đặc sắc của văn hóa làng biển. Nghè Ba Mươi sau mấy trăm năm tồn tại nơi đầu sóng ngọn gió, trải qua những thử thách của thiên nhiên và nhiều biến cố lịch sử, Nghè đã bị mất đi nhiều di vật cổ, quy mô kiến trúc của Nghè cũng không được bề thế như xưa. Nhưng những chứng tích còn lại của Nghè đã làm sống lại một giá trị văn hóa, đời sống tinh thần phong phú của làng Du Vịnh xưa. CHƯƠNG TRÌNH LỄ HỘI NGHÈ BA MƯƠI
| NỘI DUNG | THỰC HIỆN | 1 | Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu |
| 2 | Khai mạc- đánh trống khai hội |
| 3 | Đọc sự kiện lịch sử truyền thống |
| 4 | Tế lễ |
| 5 | Đại biểu và nhân dân Dâng hương |
|
|